Trong một tháng trở lại đây, mạng xã hội xôn xao với đoạn video ghi lại một cảnh tượng được cho là “tục bắt vợ” của người Mông. Đã có nhiều ý kiến xoay quanh đoạn video – hầu hết là chỉ trích “hủ tục bắt vợ” thay vì tập trung vào sự bạo lực của hành vi được thực hiện.
Mặc dù sự việc đã qua được một thời gian, VOGE vẫn chọn lên bài vào thời điểm hiện tại sau khi đã tìm hiểu kỹ lưỡng. Tự nhận thấy VOGE không có đủ kiến thức và trải nghiệm về vấn đề này, chúng mình đã dành thời gian tìm hiểu và thực hiện phỏng vấn với hai người Mông: anh Tuam Khaab và một phụ nữ Mông ẩn danh. Ngoài ra, chúng mình còn phỏng vấn anh Nguyễn Vũ Hải – cán bộ chương trình dân tộc thiểu số tại Viện iSEE, một người đã tìm hiểu về văn hóa Mông trong thời gian dài.
Để chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn với các nhân vật, chúng mình xây dựng bộ câu hỏi và tham khảo thông tin từ những tài liệu sau: “Ghi chép về văn hóa dân gian Hmôngz” (Mã A Lềnh), “Tiếng hát làm dâu – áp chế hay tự do? Từ vị thế của người phụ nữ H’Mông thử nhìn về những giá trị dân chủ, bền vững trong cấu trúc xã hội tộc người” (Nguyễn Mạnh Tiến), “Tín ngưỡng của người H’Mông ở Việt Nam” (Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam), “Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt Nam” (Nguyễn Chí Buyên).
Chủ đề này sẽ được chia làm hai phần khác nhau. Phần 1, VOGE sẽ cùng độc giả tìm hiểu những thông tin cơ bản về tục “Coj nyaab” (tạm dịch: đón dâu) của người Mông. Phần 2, VOGE mời độc giả cùng phân tích kĩ hơn các diễn ngôn về tục “Coj nyaab” và bình đẳng giới – từ đó rút ra góc nhìn thấu đáo hơn về vấn đề này.
Từ vị thế những người trẻ hoạt động vì bình đẳng giới và đồng thời đứng ngoài văn hoá – xã hội Mông, chúng mình thực hiện bài viết này vừa để chính bản thân chúng mình hiểu thấu đáo hơn và chia sẻ phần nào những tìm hiểu đó đến cộng đồng lớn. Chúng mình cũng mong rằng, việc tìm hiểu và đưa góc nhìn từ những người trong cuộc sẽ trở thành một ví dụ cho truyền thông bao hàm, thấu đáo và bình đẳng, mở ra một cách tiếp cận truyền thông công bằng hơn trong lĩnh vực bình đẳng giới.
PHẦN 1: NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA
Theo câu chuyện cổ tích của người Mông giải thích về “Kev cai sib yuav” (thực hành kéo dâu), hôn nhân của người Mông ban đầu là do cha mẹ sắp đặt vì các đôi nam thanh nữ tú ít có cơ hội tìm hiểu nhau do người Mông thường định cư rải rác tại khu vực vùng núi, địa hình trắc trở. Vì vậy, người Mông cũng tổ chức chơi Tết để các đôi trai gái tìm hiểu lẫn nhau.
Một năm nọ, chàng trai tên Páo và cô gái tên Mỷ gặp nhau tại lễ hội và phải lòng nhau. Họ hẹn ước lấy nhau thay mặt cho dòng họ hai bên, lấy thắt lưng vải của Páo và khăn đội đầu của Mỷ làm vật chứng. Theo đó, họ giao kèo rằng nếu một trong hai không làm theo lời hẹn, người đó sẽ phải ăn hết vật chứng. Tuy nhiên, khi đến ngày hẹn, Mỷ không đồng ý về nhà Páo vì bố mẹ cô ngăn cấm.
Hai người quyết định mang vật chứng ra – tức là mảnh vải làm thắt lưng và chiếc khăn đội đầu – buộc vào nhau rồi kéo, nếu ai kéo thắng thì sẽ nghe theo người đó. Cuối cùng, Páo giành phần thắng. Chàng mang sính lễ và vật chứng đến để hỏi cưới nàng. Nhà gái đành đồng ý hôn sự này vì con gái họ đã trao đổi đồ vật với người ta, đại diện cho việc giữa hai người đã có giao ước; nếu bội ước, cả gia đình và dòng họ nhà gái đều bị mất mặt trước cộng đồng. Điều này rất quan trọng vì người Mông là cộng đồng văn hóa dựa trên dòng họ, nên mọi vấn đề sẽ đều được quy về dòng họ.
Trong bản, nhiều chàng trai nhận thấy đi kéo vợ sẽ hạnh phúc hơn nhiều so với nghe theo sự sắp đặt của bố mẹ, nên cũng rủ nhau đi kéo vợ – tạo ra nhiều hiểu lầm và tranh chấp trong cộng đồng. Thấy vậy, các dòng họ mới họp bàn và thống nhất ba kiểu hôn nhân chính: (i) Các đôi trai gái chủ động tìm hiểu nhau, (ii) Bố mẹ sắp đặt hôn sự cho con cái, (iii) Kéo dâu – dành cho những trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như chàng trai không thể lấy được vợ vì những thủ tục, nghi lễ nghiêm ngặt. Các độc giả có thể đọc bản đầy đủ ở dưới phần bình luận nhé.
Bản chất tục “Coj nyaab” là một nét văn hóa chỉ riêng người Mông mới có và có thể mang lại nhiều ý nghĩa tốt đẹp cho cả người nam và người nữ, kể cả thực hành kéo dâu (Kev cai sib yuav).
Đầu tiên, theo quan niệm người Mông, thực hành có thể nâng cao vị thế của người phụ nữ: cô gái nào càng được kéo nhiều thì càng “có giá” – tức là được nhiều người theo đuổi – thể hiện là cô ấy xinh đẹp, hồng hào, có sức khỏe tốt, có thể làm được nhiều việc, giỏi giang, v.v… Thứ hai, cô gái sẽ có dịp được quan sát và tìm hiểu về nhà trai (như của cải, quan hệ trong gia đình), từ đó quyết định rằng mình có hợp với gia đình này không, có muốn kết hôn với người này hay không. Điều này đảm bảo đời sống sau này của cô gái có thể tốt hơn, vì người Mông thường sống chung nhiều thế hệ và nhiều cặp vợ chồng trong một gia đình. Vậy nên, khi cô gái cưới chồng, cô không chỉ ở với chồng mà còn ở với cả gia đình chồng. Cần phải lưu ý, trong văn hóa của người Mông, vai trò của dòng họ là rất quan trọng; những giá trị gia đình, cộng đồng thường được coi trọng hơn các giá trị cá nhân.
Với người nam, thực hành này giúp những chàng trai không giàu có, điều kiện gia đình không tốt cũng có thể lập gia đình, tránh những trường hợp thách cưới quá cao.
Với cả nam và nữ, thực hành này tạo điều kiện cho các đôi trẻ đến với nhau một cách tự do, thuận ý đôi bên, thể hiện phần nào tính cá nhân và khai phóng con người – chẳng hạn, đôi nam nữ có thể tránh được sự sắp xếp của gia đình.
2 – ĐẰNG SAU TÊN GỌI “COJ NYAAB”

Tục “Coj nyaab” hay “Tog nyaab” của người Mông có thể được dịch ra là “đón dâu”. Trong ngôn ngữ và cách hiểu của người Mông, tên gọi này mang tính trung lập: từ “coj” có nghĩa tương tự như “đưa”, “đón” hoặc “xách” trong tiếng Kinh chứ không phải “kéo” hay “bắt” – một cách dịch không sát nghĩa gốc và bao hàm tính bạo lực trong đó. Tên gọi này bao hàm cả quá trình lẫn các thực hành đón dâu khác nhau.
Người Kinh thường biết đến tục “Coj nyaab” với cái kên “Kéo vợ” hay “Bắt vợ” – vốn chỉ là một trong số nhiều cách để thực hiện tục “Coj nyaab”. Sự phổ biến của cách dịch này bị ảnh hưởng bởi: Sự “không nằm trong” văn hóa: từ người ngoài nhìn vào và đánh giá một cách chủ quan, vội vàng và phiến diện, từ đó có sự dịch thuật như vậy.
Sử dụng tiếp diễn của những thuật ngữ này trên truyền thông, báo chí và các phương tiện đại chúng khác do nhóm đa số – người Kinh, làm các thuật ngữ dịch sai lệch càng phổ biến hơn.
Cũng có thể còn những lý do khác mà VOGE chưa tìm hiểu được.
Thực hành mà người Kinh thường biết đến là “kéo vợ” ấy trong tiếng Mông là “Hai nyaab” hoặc “Kev cai sib yuav” (theo trang “Action for Hmong Development – AHD”). Đây là một hành động cụ thể, không có nghĩa bao hàm tất cả thực hành khác. “Hai nyaab” có thể cùng nguồn gốc và ý nghĩa biểu trưng với các thực hành khác, nhưng khác ở chỗ “hai nyaab” có tính bạo lực. Ngoài ra, việc đến nhà hỏi xin dâu được gọi là “hais nyaab” hoặc “qhaib nyaab”.
Cái tên không đơn giản là ngôn ngữ hay công cụ để gọi một hiện tượng, mà nó còn phản ánh cách ta nhìn nhận và hiểu “cái được gọi”. Việc gắn mác “kéo vợ”/ “bắt vợ” lên tục “Coj nyaab” phần nào thể hiện cách người Kinh – cũng là nhóm đa số – gắn tính chất bạo lực và phi pháp cho thực hành này. Song song với việc thể hiện góc nhìn của người sử dụng, cách gọi “kéo vợ”/ “bắt vợ”/ “cướp vợ” còn tái sản xuất những định kiến phiến diện về tục “Coj nyaab” – gắn liền với những tính từ “cổ hủ”, lạc hậu”, v.v.
Qua những tổng hợp phía trên, mong rằng chúng ta có thể hiểu khoảng cách giữa cách gọi “coj nyaab” trong cách hiểu đa dạng đa chiều của người Mông và “kéo vợ”, “bắt vợ” như những cách duy nhất mà người Kinh thường nói đến, hiểu về hiện tượng này.
3 – TỤC COJ NYAAB ĐƯỢC TIẾN HÀNH NHƯ THẾ NÀO TRONG BỐI CẢNH VĂN HOÁ – XÃ HỘI MÔNG?

Tuy có cùng nguồn gốc và ý nghĩa biểu trưng tốt đẹp, nhưng vô số các “biến thể” khác nhau của tục “Coj nyaab” đã ra đời trong quá trình thực hành – theo dòng lịch sử, sự xoay vần của bối cảnh xã hội, các tác nhân lẫn hoàn cảnh cá nhân khác nhau. Chúng mình cũng không có lời giải thích cụ thể cho vì sao từng biến thể đã ra đời, nhưng biết được mỗi cộng đồng, mỗi nơi sinh sống, mỗi hoàn cảnh và tình huống thì thực hành coj nyaab có thể khác đi một chút. Trong số những biến thể đó, có một số bao hàm yếu tố bạo lực và “cưỡng ép”.
3.1. PHÂN LOẠI THỰC HÀNH “COJ NYAAB”
Như đã đề cập ở ảnh trước, quá trình thực hành cưới xin của người Mông có thể cân nhắc nhiều cách, tùy vào từng địa phương và hoàn cảnh cá nhân. Các đôi trai gái chủ động tìm hiểu nhau, đồng ý lấy nhau rồi mới theo nhau đi về và tổ chức ăn hỏi, cưới xin. Trong trường hợp bố mẹ là người sắp xếp hôn sự cho con cái, sẽ xảy ra trường hợp con cái không đồng tình với sự sắp đặt đó vì đã yêu người khác, nên có thể sử dụng “coj nyaab” để đưa ra quyết định của đôi trẻ. Ngoài ra, cũng có những cặp đôi thấy việc “làm lý(*) khá nhiều nên mới kéo để tắt một số thủ tục cũng như dễ dàng cho hai bên” – người phụ nữ Mông ẩn danh cho biết.
Khi rơi vào các trường hợp này, thực hành thường không có tính cưỡng ép hoặc chỉ là cưỡng đoạt bề ngoài – xem thêm phần 3.2 về quá trình thực hiện. Qua thực hành “coj nyaab”, đôi trẻ có thể thể hiện rằng:
(i) Chàng trai rất muốn lấy cô gái này làm vợ;
(ii) Chàng trai sẽ có trách nhiệm với cô gái và dòng họ.
Bên cạnh đó, các chàng trai không có cơ hội lấy vợ theo hai cách trên (thường là những chàng trai nhà nghèo, mồ côi hoặc không có ai lấy vì một lý do nào đó) sẽ được phép kéo một cô gái về, nhưng người con gái này phải đang không trong mối quan hệ tình cảm với bất cứ chàng trai nào, và càng không thể là vợ của người khác, cũng như không có hôn ước nào cả. Sau khi kéo về, nhà trai có trách nhiệm giữ danh dự cho cô gái và nhà gái, rồi tổ chức ăn hỏi, cưới xin đầy đủ, nếu nhà gái đồng ý mới được lấy.
Nếu không có sự thỏa thuận và ưng ý từ trước thì sẽ được gọi là “hai nyaab”/ “hei nhangz” – thể hiện tính chất cưỡng ép. Tuy nhiên, hình thức này không được cộng đồng khuyến khích. Nếu cô gái bị cưỡng ép, cô gái có quyền tố cáo và bên nhà trai sẽ bị phạt vạ rất lớn. Khi điều này diễn ra: Cô gái có thể bỏ về;
Gia đình nhà gái có thể đến đưa con gái về;
Sính lễ cưới sẽ cao hơn hoặc cô gái có quyền yêu cầu phạt vạ;
Quyết định cuối cùng của cô gái sẽ là cơ sở xác định tính cưỡng ép, tức cô có quyền nói rằng “Tôi đã bị ép buộc.”
Nếu cô gái bị xâm phạm trong quá trình coj nyaab – trên cơ sở sẽ ảnh hưởng đến danh dự của cô gái trong tương lai – thì tương tự, cô gái cũng có thể tố cáo. Khi đó, nhà trai sẽ bị phạt vạ hoặc sính lễ với nhà trai sẽ nặng hơn.
3.2. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
Theo ghi chép của Mã A Lềnh, đám đi kéo dâu có một phụ nữ đứng tuổi, khoẻ mạnh và siêng năng đi đầu. Khi thấy cô gái ở nơi khuất như đã hẹn, người phụ nữ tỏ dáng cùng lời thân thiện và tiến lại cầm tay cô gái lôi đi ba bước. Vậy là kết thúc việc kéo dâu. Nếu không tìm được người phụ nữ này thì chàng trai sẽ là người thay thế, nắm tay cô gái. Điều này khớp với chia sẻ của các nhân vật VOGE đã phỏng vấn rằng trong quá trình kéo, cần có một người phụ nữ đứng ra để đảm bảo là cô gái không bị xâm hại (cũng là để làm chứng).
Đa số những trường hợp “coj nyaab” đều có sự tự nguyện từ trước giữa người nam và người nữ. Trong quá trình kéo, cô gái có thể đổi ý dẫn đến việc giằng co; hoặc, sự giằng co và cưỡng ép chỉ mang tính bề ngoài và biểu trưng. Sau khi được kéo về, cô gái ở nhà trai ba ngày, quan sát cuộc sống ở gia đình chàng trai, đồng thời nói chuyện với mẹ và chị/em gái của chàng trai. Sau 2 – 3 ngày, nếu cô gái đồng ý ở lại làm dâu, nhà trai sẽ tiến hành đưa đoàn đại diện sang nhà gái hỏi cưới một cách nghiêm túc – tuân thủ các quy định văn hóa và xã hội của cộng đồng. Trên lý thuyết, chỉ khi cô gái vui vẻ đồng ý, nhà gái mới cho con gái theo con trai về. Nếu cô gái không đồng ý cưới chàng trai, cuộc hôn nhân sẽ không được tiến hành. Từ trước, trong và sau khi tục “coj nyaab” diễn ra, hai bên nam và nữ đều có sự thỏa thuận.
4 – THỰC HÀNH TỤC “COJ NYAAB” TRÊN THỰC TẾ

Theo anh Nguyễn Vũ Hải: “Qua quá trình phỏng vấn, mình được biết có nhiều người nam vẫn kéo vợ nhưng vì họ rất thương người yêu của mình nên họ không dùng vũ lực mà chỉ kéo nhẹ về thôi, hay sợ bạn bè mình động chạm người yêu nên không tổ chức đoàn kéo nữa.” Có thể nói, những thực hành có sự đồng thuận và phi bạo lực vẫn được chấp nhận hơn. Nhìn chung, cách thực hành và nhìn nhận tục coj nyaab đa dạng và có nhiều biến thể tùy theo từng địa phương khác nhau. Ví dụ, theo quan sát của anh Tuam thì coj nyaab ở Mù Căng Chải thường diễn ra vào lúc tối trời và chỉ bao gồm những ai liên quan, vì thực hành này được người Mông ở đây xem như một chuyện riêng tư; trong khi đó ở Sa Pa, coj nyaab thường diễn ra vào ban ngày dưới sự chứng kiến của nhiều người, trong đó có thể có cả khách du lịch, dẫn đến hình ảnh coj nyaab ở Sapa được lan truyền nhiều hơn.
Vì lẽ đó mà dù đã có các quy định hay luật bất thành văn để bảo vệ quyền lợi, danh dự, nhân phẩm và sự thoải mái của cô gái cùng những bên liên quan, thì trên thực tế vẫn có nhiều trường hợp những điều này chưa được đảm bảo triệt để. Phụ nữ Mông còn gặp một số trắc trở khi đưa ra quyết định và thực hành tự trị của bản thân.
Ví dụ, trên lý thuyết, người phụ nữ có thể tố cáo hoặc nêu ý kiến phản đối trong trường hợp bị xâm phạm/ không đồng ý kết hôn với người đã kéo mình. Theo anh Tuam quan sát, nếu người nữ thấy bị cưỡng ép, không muốn lấy người nam đó hoặc cảm thấy bị xúc phạm danh dự thì người nữ có thể tố cáo và nhà trai sẽ bị phạt vạ; nhưng vẫn cần lưu ý những điểm sau:
Điều này yêu cầu người nữ có khả năng tố cáo và bảo vệ chính kiến bản thân, nhất là khi thủ tục hais nyaab diễn ra khá phức tạp và mất thời gian. Người nữ sẽ bị hỏi đi hỏi lại rất nhiều lần về lập trường của cô ấy. Nếu cô gái đủ vững vàng vượt qua các câu hỏi, chất vấn và cương quyết thì mọi người mới tôn trọng quyết định, nếu không cô gái vẫn sẽ bị gả.
Nhiều cô gái vẫn muốn giữ danh dự cho gia đình dòng họ và cho bản thân, chẳng hạn như nếu tố cáo hành vi vi phạm ra thì có khả năng cô gái đó sẽ không được tôn trọng nữa. Vậy nên, họ không muốn lên tiếng tố cáo, cũng là vì họ đặt gia đình và cộng đồng lên trên cá thể.
Người Mông có vẻ không quan tâm lắm đến việc mình có bị bạo lực hay không. Khi anh Tuam trao đổi với các phụ nữ Mông tại Sapa, họ chia sẻ rằng “rất sợ con gái mình bị kéo nhưng lại không sợ con người khác bị kéo, tức là thấy sợ con mình đau nhưng [họ] cho rằng việc bị đau trong lúc kéo là không thể tránh khỏi.”
Ngoài ra, việc người phụ nữ có thể tố cáo hoặc nêu ý kiến phản đối trong trường hợp bị xâm phạm/không đồng ý kết hôn với người đã kéo mình còn dựa vào khả năng phản biện của người nữ; hoặc, theo lời của người phụ nữ Mông mà chúng mình phỏng vấn thì “tùy vào sự am hiểu cũng như hiểu biết pháp luật của người phụ nữ đó. Nếu như không được đi học, họ sẽ không biết họ có quyền lợi gì và được làm gì. Có bạn sẽ tố cáo tuy nhiên sẽ không truy cứu. Còn có bạn không làm được gì chỉ có thể đi lấy người đó, hầu hết các bạn đều học dở dang nên không dám lên tiếng và nghe theo bố mẹ.”
5 – COJ NYAAB VÀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

Vậy, những diễn ngôn kiểu “tục kéo vợ/ bắt vợ/ cướp vợ là cổ hủ, lạc hậu” mà chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy trên truyền thông đại chúng liệu có đúng đắn và trung thực?
Qua ba phần trên, ta có thể thấy: bản chất tục “Coj nyaab” là một thực hành có nguồn gốc và ý nghĩa tốt đẹp, hướng đến sự khai phóng con người. Tuy nhiên, trong thực tế, quá trình thực hành vẫn nảy sinh một số khía cạnh mang tính bạo lực và cưỡng ép. Vấn đề ta cần xử lý và cải thiện nằm ở những khía cạnh này, chứ không phải khái quát cả tục “Coj nyaab” chung chung là “cổ hủ”, “lạc hậu”, “hủ tục”.
Khái quát hoá như vậy đồng nghĩa với góp phần phổ biến định kiến về người dân tộc thiểu số – những người “kém văn minh”, “chậm tiến” và cần được “giải cứu”, “khai sáng” bởi nhóm dân tộc đa số. Lịch sử đã cho thấy sự sai lầm và lệch lạc của hướng tư duy này. Nó chỉ gây ra chia rẽ và củng cố thêm quyền lực của nhóm thống trị, chứ không hề tạo ra sự thấu hiểu sâu sắc và tôn trọng, bình đẳng giữa người với người.
Tuy nhiên, điều này cũng không có nghĩa “phụ nữ Mông đã có bình đẳng giới rồi” như một số cách khắc họa có phần lãng mạn, lý tưởng hoá. Chẳng hạn, theo anh Tuam, việc sở hữu và thừa hưởng đất đai thường được ưu tiên cho nam giới Mông, còn phụ nữ có một vị trí tương đối thấp và mang tính lệ thuộc. Bên cạnh yếu tố niềm tin và quan niệm, các hoạt động du lịch nói riêng và nền kinh tế thị trường nói chung cũng góp phần củng cố khía cạnh bạo lực và cưỡng ép của “Coj nyaab.” Trẻ em và thanh thiếu niên không nhận được sự giáo dục đầy đủ về văn hóa của chính mình, từ đó dẫn đến những cách hiểu và thực hành lệch lạc. Đây không đơn thuần là câu chuyện văn hóa mà còn có sự tham gia của các thiết chế xã hội khác – điều kiện phát triển kinh tế, giáo dục, an sinh xã hội.
Giải pháp không phải là xóa bỏ văn hóa hay xếp hạng cao – thấp, văn minh – lạc hậu cho các văn hoá, cộng đồng khác nhau; mà là xây dựng biện pháp để hiểu đúng và giữ được những giá trị nhân văn của nó, truyền dạy cho những thế hệ tiếp theo để thực hành đúng đắn, cải thiện hoặc chống lại những ảnh hưởng dẫn đến thực hành mang tính bạo lực, tiêu cực. Bất bình đẳng giới có rất nhiều biểu hiện, hình thái và căn nguyên khác nhau – dựa trên lịch sử, văn hóa, xã hội và các quá trình chính trị, kinh tế của từng cộng đồng, từng địa phương. Vì vậy, thúc đẩy bình đẳng giới thực chất là cần phải đào sâu vào những kiến tạo và thiết chế xã hội này, thay vì chỉ kêu gọi hời hợt và từ đó khắc sâu thêm các bất bình đẳng xã hội trên cơ sở khác – chẳng hạn như việc chụp mũ và đánh giá văn hóa của cộng đồng khác qua góc nhìn vị chủng.
PHẦN 2: NHỮNG HIỂU LẦM VỀ TỤC “COJ NYAAB”
Trong phần trước, VOGE và các bạn độc giả đã cùng tìm hiểu về tục “Coj nyaab” của người Mông và một số góc nhìn xoay quanh nó. Trong phần này, chúng mình sẽ cùng bóc tách những hiểu lầm đối với tục “Coj nyaab”, bao gồm hai hiểu lầm chính: (i) Đây là một hủ tục, (ii) Đây là một thực hành cản trở bình đẳng giới và gây hại cho phụ nữ.
TẠI SAO BÓC TÁCH CÁC HIỂU LẦM LẠI QUAN TRỌNG?
Trước tiên, nó sẽ giúp ta tránh được thái độ vị chủng khi tiếp nhận văn hóa của những cộng đồng khác – đặc biệt khi đó là cộng đồng thiểu số. Thực tế, tục “Coj nyaab” có rất nhiều biến thể và hình thức, nhưng trong số đó chỉ có “Hai nyaab” (hay còn được người Kinh biết đến với tên gọi “kéo/ bắt/ cướp vợ”) là được tô đậm bởi truyền thông vốn phần lớn do người Kinh làm chủ.
Tiếp theo, nó sẽ giúp làm sáng tỏ tính giao thoa trong bình đẳng giới, đặc biệt là tại bối cảnh Việt Nam với 54 dân tộc cùng chung sống. Ta không thể thúc đẩy bình đẳng giới nhưng lại có thái độ thực dân văn hóa, khắc sâu thêm bất bình đẳng và bất công trên cơ sở dân tộc, lề hóa nhóm yếu thế. Phụ nữ người dân tộc thiểu số luôn phải chịu hai lớp định kiến và áp bức: một vì sắc tộc, hai vì giới.
Cuối cùng, cách nói và hiểu phổ biến về “Coj nyaab” hiện nay cho thấy vị thế bị động của người Mông trong việc quyết định văn hóa của chính mình. Suy cho cùng, người Mông – chủ thể văn hóa chính – mới nên là người nắm trong tay quyền tự quyết với văn hóa của họ. Những người sống ngoài bối cảnh văn hóa đó không nên lấn át tiếng nói của người trong cuộc.

Với những vấn đề và cân nhắc đó, VOGE tin rằng con đường thúc đẩy bình đẳng giới trong tương lai chắc chắn không phải là khắc sâu thêm định kiến và bất bình đẳng sắc tộc; càng không phải lý tưởng hoá xã hội tộc người để “ngoảnh mặt làm ngơ” trước những bất công với phụ nữ; cũng không phải cướp đi tiếng nói và quyền tự định nghĩa của người Mông về văn hoá – xã hội của họ.
Có chăng, chúng ta cần đẩy mạnh giáo dục và nhận thức về văn hóa Mông cho tất cả, bao gồm phổ biến các thực hành khác nhau để các bạn trẻ người Mông hiểu đúng và không để bạo lực xảy ra? Có chăng, chúng ta cần quan tâm đến vị thế xã hội – chính trị – kinh tế của phụ nữ Mông nói riêng và an sinh xã hội cho người Mông nói chung, để những người phụ nữ Mông có thể góp tiếng nói, lao động và tài nguyên của họ trong việc xây dựng văn hoá và xã hội Mông công bằng với phụ nữ hơn? Và có chăng, thứ cần quản lý và xóa bỏ là những khía cạnh bạo lực của văn hóa trong trường hợp nó diễn ra, chứ không phải xóa bỏ hoàn toàn “Coj nyaab” hoặc kết tội nó như một “hủ tục” qua lăng kính phiến diện của người ngoài?

“Đây là một thực hành cản trở bình đẳng giới và gây hại cho phụ nữ”
Trên lý thuyết, tục “Coj nyaab” có những cơ chế và đặc điểm để bảo vệ người phụ nữ: Khi thực hành diễn ra: cần có một người nữ đi dẫn đầu đoàn hoặc đi theo để làm nhân chứng, đảm bảo chuyện xâm hại không xảy ra.
Khi về nhà trai, cô gái sẽ được trò chuyện và ngủ cùng với mẹ hoặc em gái/chị gái của chàng trai.
Cô gái là người quyết định liệu hôn sự này có thành hay không. Kể cả trong trường hợp bị kéo về không có sự đồng thuận, quyết định của cô là then chốt để tiến hành phạt vạ nhà trai.
Về mặt ý nghĩa, thực hành “Coj nyaab” giúp nâng cao vị thế của người phụ nữ tại nhà chồng, cả trước, trong và sau hôn nhân. Tuy nhiên, những thực hành mang tính bạo lực và cưỡng ép với phụ nữ không phải không tồn tại trên thực tế. Không phải lúc nào cũng có một người nữ đi theo đoàn; cô gái khi về nhà chàng trai chưa chắc đã được đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể và được trò chuyện cùng mẹ/chị, em gái; việc yêu cầu phạt vạ cũng không hề dễ dàng.
Vậy, câu hỏi đặt ra là: Liệu tục “Coj nyaab” có phải gốc rễ của những vấn đề trên, hay chỉ là phần nổi của tảng băng chìm?
Theo anh Tuam, quyền của phụ nữ Mông thực ra không có văn bản hay cơ chế nào có thể đảm bảo, mặc dù trên lý thuyết có được đảm bảo. Anh cảm thấy xã hội người Mông vẫn “đặc phụ hệ” hơn, thể hiện trong một số khía cạnh sau: Sở hữu và thừa hưởng đất đai: Nam giới vẫn được cân nhắc nhiều hơn. Trong xã hội nông nghiệp thì đất đai là vô cùng quan trọng – nó quyết định lao động và của cải vật chất. Vì lẽ đó, người phụ nữ bị lệ thuộc vào chồng và nếu muốn ly dị cũng không được. Trong những trường hợp cực đoan, họ thường phải tìm đến cái chết hoặc trốn sang nước láng giềng Trung Quốc.
Quan niệm: Người Mông ủng hộ việc đi chơi đêm, trong đó con trai thường đi theo nhóm và được khuyến khích tự do tình dục. Tuy nhiên, người lớn luôn dặn con gái phải biết bảo vệ mình mà không ai dặn con trai là không được làm hại con gái.
Vị trí trong xã hội: Vị trí của người phụ nữ Mông tương đối thấp, do lối suy nghĩ rằng “Nuôi con gái là nuôi cho nhà người ta, đằng nào cũng phải đi lấy chồng.”
Tất cả những điều trên chỉ ra rằng, gốc rễ của bất bình đẳng giới không nằm ở tục “Coj nyaab”, mà nằm ở hệ thống niềm tin, văn hóa, quan hệ xã hội và phân chia lao động/tài sản của người Mông. Vậy nếu xóa bỏ hoàn toàn tục “Coj nyaab” mà không cải thiện những cấu trúc trên thì hiện trạng bất bình đẳng giới và quyền phụ nữ liệu có thay đổi không? Ở đây, chúng ta nên nhìn những khía cạnh bạo lực với phụ nữ xảy ra trong “Coj nyaab” như một trong số các biểu hiện/kết quả của sự bất cân bằng quyền lực giữa người nam và người nữ trong xã hội Mông, của việc thiếu đầu tư và trao quyền cho phụ nữ; chứ không phải “Coj nyaab” chung chung là nguyên nhân gây ra bất bình đẳng giới.
Ngoài ra, không thể không kể đến những tác nhân như sự can thiệp của chủ nghĩa tư bản dưới dạng các hoạt động phát triển kinh tế và du lịch. Ở một số địa điểm du lịch chẳng hạn như Sapa (nổi tiếng với Chợ Tình), việc thực hành “Hai nyaab” được diễn ra vào ban ngày và có nhiều người xem như một sự kiện cộng đồng. Nhằm thu hút du khách và sinh lợi nhuận, đánh vào tâm lý đám đông đầy định kiến sắc tộc, người ta cố tình cho phép những thực hành cường điệu hoá và khiến cho danh dự, thể diện của người nữ càng bị ảnh hưởng tiêu cực. Để so sánh, ở Mù Căng Chải, thực hành “Coj nyaab” thường diễn ra vào ban đêm vì người Mông nơi đây quan niệm đó là một sự kiện kín và riêng tư, bí mật.
Tóm lại, tục “Coj nyaab” chỉ cản trở bình đẳng giới khi trong quá trình thực hành có khía cạnh bạo lực và cưỡng ép – mà như trong bài viết này đã bóc tách, chúng ra đời như một biểu hiện của những cấu trúc bất bình đẳng, bởi sự đứt gãy văn hóa và sự nhúng tay của hoạt động sinh lời. Nếu muốn đấu tranh cho bình đẳng giới thực chất, ta phải nhìn nhận vấn đề một cách đa chiều, thấu hiểu tầng tầng lớp lớp những thiết chế xã hội đan xen và phức tạp ấy, thay vì chỉ đơn giản đòi “hủy bỏ” một tục lệ nào đó.
“Đây là một hủ tục”?

Hủ tục là phong tục, tập quán đã lỗi thời, lạc hậu [1]. Khi nói “Coj nyaab” là một “hủ tục”, tức là đang ám chỉ nó không còn hợp với các giá trị “hiện đại”, “văn minh” và khiến xã hội trì trệ.
Có thể nói, đó là góc nhìn phiến diện được đưa ra sau những đoạn video không đủ bối cảnh, thiếu giải thích và mang tính thu hút lượt xem trên mạng xã hội – một lát cắt của thực tế được nhìn nhận và đánh giá bởi người Kinh. Như đã đề cập ở phần 1, “Coj nyaab” là một phong tục mang ý nghĩa nhân văn, có thể đem lại ý nghĩa tốt đẹp với những người thực hành nó và rất đa dạng trong cách thực hành.
Về mặt nguồn gốc và ý nghĩa, tục “Coj nyaab” (tạm dịch: đón dâu) xuất phát từ nhu cầu “đơn giản hoá” các thủ tục cưới xin của người Mông, trở nên hợp tình hợp lý hơn và tạo cơ hội cho người trẻ tự quyết định hôn nhân của mình (đọc đầy đủ hơn ở phần 1).
Trên thực tế, “Coj nyaab” vẫn được thực hành một cách đa dạng, với sự ưu tiên dành cho những hình thức có đồng thuận và gây ít tổn thương cho người nữ. Trên cả lý thuyết lẫn thực tế, thực hành “bắt vợ”/“cướp vợ” (trong tiếng Mông là “hei nhangz”) là một hình thức không được khuyến khích, và nếu có xảy ra thì nhà trai có khả năng sẽ bị phạt vạ rất lớn theo luật. Điểm cần lưu ý duy nhất ở đây là quy trình yêu cầu phạt vạ trên thực tế có thể không thuận lợi cho người nữ như phần 1 đã giải thích: người nữ chưa có đủ kiến thức và kĩ năng để bảo vệ quan điểm của bản thân, bị tra hỏi rất nhiều lần, chịu “nhắm mắt xuôi tay” theo lời bố mẹ hoặc để giữ danh dự cho dòng họ,…
Vì vậy, định nghĩa chung chung cả một thực hành văn hoá là “hủ tục” bất chấp những giá trị và vai trò của nó với cộng đồng, bất chấp tiếng nói và trải nghiệm của người trong cuộc, chính là đang cướp đi quyền tự quyết của các “chủ thể văn hoá” và cho phép bản thân định nghĩa những điều vốn thuộc về người khác – cho dù định nghĩa của chúng ta đầy méo mó và quan liêu.
Trong vô số cách thực hành “Coj nyaab”, có một số hình thức có khía cạnh bạo lực như phần 1 đã mô tả. Tuy nhiên, cần phải hiểu các nguyên nhân phức tạp và chồng chéo đã tạo ra và duy trì khía cạnh bạo lực đó: Sự thay đổi không gian sống và các quan hệ xã hội, chẳng hạn:
Tiếng nói các già làng trong cộng đồng không còn quá quan trọng như ngày xưa để có thể phân xử các trường hợp phạt vạ/bị xâm phạm, vì bây giờ vấn đề này đang được quản lý bởi các thiết chế hiện đại như pháp luật và nhà nước, vốn khó có thể sát sao và thấu hiểu các tương tác trong cộng đồng, giữa các dòng họ…
Giới trẻ không có dịp thực hành “Coj nyaab”, từ đó không có trải nghiệm để quan sát, bóc tách và hiểu các ý nghĩa của thực hành. Người trẻ cũng không có dịp để được các thế hệ lớn hơn chỉ bảo về ý nghĩa và nguồn gốc, kể lại những trải nghiệm đa dạng từ xưa…
Quản lý của pháp luật và nhà nước: Các diễn ngôn và các chính sách “nước đôi” về văn hóa dân tộc thiểu số – một mặt phải giữ gìn bản sắc dân tộc, một mặt phải phát triển, văn minh – mà đa số thiếu đi những ranh giới, động cơ và định hướng rõ ràng.
Giáo dục: Trẻ em không có điều kiện để học về văn hóa của mình từ chính người trong cộng đồng mà học từ những người không “nằm trong” văn hóa, chẳng hạn qua những văn bản trong sách giáo khoa và những thầy cô giáo người Kinh không có hiểu biết về văn hoá, xã hội Mông.
Truyền thông và ngành du lịch lợi nhuận: chỉ chọn quảng bá và tô đậm những thực hành “Hai nyaab” thay vì miêu tả “Coj nyaab” đầy đủ và trung thực.
Ta có thể thấy, khía cạnh bạo lực có thể tồn tại ở mức độ cá nhân – như khi một số cá nhân cố tình hoặc vô tình làm sai vì nhiều lý do – nhưng cũng có thể bị duy trì và thậm chí thổi phồng, củng cố thêm do các tác nhân, thiết chế hiện đại: giáo dục, truyền thông, du lịch, kinh tế thị trường, sự đứt gãy văn hoá… Tuy chúng ta nhìn nhận trực diện và cố gắng thay đổi những khía cạnh bạo lực ấy, khái quát cả thực hành “Coj nyaab” là “hủ tục” là biểu hiện của định kiến vùng miền và sắc tộc, đồng thời chối bỏ trách nhiệm nhìn nhận đúng và chung tay thay đổi các tác nhân hiện tại đang duy trì bạo lực.
Đó là những điều VOGE và các nhân vật phỏng vấn đã trao đổi với nhau. Để hiểu sâu sắc hơn nguồn gốc của những nhận định ấy, mời các độc giả nghiên cứu và thảo luận với VOGE nhé!
NGUỒN THAM KHẢO
“Ghi chép về văn hóa dân gian Hmôngz” (Mã A Lềnh)
“Tiếng hát làm dâu – áp chế hay tự do? Từ vị thế của người phụ nữ H’Mông thử nhìn về những giá trị dân chủ, bền vững trong cấu trúc xã hội tộc người” (Nguyễn Mạnh Tiến)
“Tín ngưỡng của người H’Mông ở Việt Nam” (Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam) – https://www.vass.gov.vn/…/tin-nguong-cua-nguoi-hmong-o…
“Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt Nam” (Nguyễn Chí Buyên) – http://lib.bvu.edu.vn/…/Nguon%20goc%20lich%20su%20toc…