Sau mỗi một vụ việc tấn công tình dục, không khó để bắt gặp những luồng quan điểm trách cứ sự im lặng của nạn nhân. Luôn có những câu hỏi chất vấn nạn nhân như: “Tại sao không lên tiếng?”, “Tại sao không báo công an?”, v.v. và muôn vàn cái “tại sao” khác.
Những câu hỏi kiểu này có hai vấn đề chính: Thứ nhất, chúng quy toàn bộ trách nhiệm lên nạn nhân và khiến nạn nhân cảm giác như việc bị tấn công tình dục là lỗi của họ, vô tình làm giảm tính nghiêm trọng của hành vi tội ác. Thứ hai, những câu hỏi mang tính dò xét này khiến nạn nhân phải bất đắc dĩ nhớ lại những ký ức kinh hoàng, gây ám ảnh. Vì lẽ đó, những câu hỏi này, cũng như quá trình tra hỏi nạn nhân dưới danh nghĩa điều tra được hai nhà tâm lý học Lee Madigan và Nancy Gamble gọi là “The second rape”, chúng ta tạm dịch là “Lần cưỡng hiếp thứ hai”/ “Tái cưỡng hiếp”.
Trong bài viết ngày hôm nay, VOGE muốn tập trung vào khái niệm “The second rape” như một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến cho các nạn nhân của tấn công tình dục chọn im lặng hoặc chỉ lên tiếng rất lâu sau khi vụ việc xảy ra. Qua đó, chúng mình mong rằng bài viết này sẽ phổ biến một thuật ngữ mới cho mọi người và thúc đẩy thảo luận về quấy rối và tấn công tình dục một cách lành mạnh.
“THE SECOND RAPE” LÀ GÌ?
Mặc dù vấn đề này đã xuất hiện từ lâu, “The Second Rape” lại là một thuật ngữ tương đối mới. Lần đầu tiên thuật ngữ này được sử dụng trong một bối cảnh học thuật trang trọng là vào năm 1991 với sự ra đời của cuốn sách cùng tên, được chắp bút bởi hai nhà tâm lý học Lee Madigan và Nancy Gamble. Trong cuốn sách, các tác giả tập trung vào sự nghiêm trọng của The Second Rape. Họ cho rằng: lần “tái cưỡng hiếp” này thậm chí còn “tàn khốc và đê hèn hơn lần bị cưỡng hiếp bằng thể xác” [1].
Đúng như tên gọi của nó, “The Second Rape” chỉ việc nạn nhân bị buộc phải nhớ lại những tình tiết gây ám ảnh và kinh khủng để phục vụ cho sự tò mò, dò xét của dư luận, cũng như quá trình điều tra khuyết thiếu sự cảm thông của những bên đại diện cho hệ thống tư pháp, trong đó bao gồm cảnh sát [2]. Quá trình “Tái Cưỡng Hiếp” có thể bao gồm hàng loạt cuộc thẩm vấn căng thẳng mà nạn nhân phải trải qua sau khi trình báo tội ác với các nhà chức trách. Đó có thể là việc phải lướt qua một dãy ảnh nghi phạm và cố tìm ra kẻ thủ ác, phải hồi tưởng lại tất cả những trải nghiệm kinh hoàng và “sống lại khoảnh khắc đó lần nữa” để phục vụ cho việc điều tra. Trong quá trình đó, nạn nhân có thể bị chất vấn về các chi tiết mà họ không muốn nhớ lại, hoặc quá khủng hoảng để có thể đưa ra câu trả lời chắc chắn. Ảnh hưởng của quá trình này gần như giống với hành vi đổ lỗi cho nạn nhân (victim-blaming), khiến nạn nhân phải sống trong dằn vặt, đau đớn, như thể việc bị cưỡng hiếp diễn ra thêm một lần nữa. Khi nạn nhân không có sự chuẩn bị và không có đủ hiểu biết về The Second Rape, một xu hướng dễ thấy là họ sẽ tự đổ lỗi cho bản thân. Họ tin rằng những người xung quanh họ luôn nói đúng, nên họ bắt đầu ghét bỏ và thiếu lòng tin vào bản thân – “khởi nguồn của vòng lặp quái ác của sự nạn nhân hóa, trầm cảm và tự làm khổ mình” (Madigan và Gamble, 1991) [3].
Tóm lại, cụm từ “The Second Rape” không ám chỉ việc bị tái cưỡng hiếp theo nghĩa đen, mà nhắm đến những tổn thương hậu sang chấn về mặt tâm lý nặng nề đến mức khiến nạn nhân không khác gì bị “cưỡng hiếp” lần thứ hai. Dẫu rằng phía nhà chức trách cần nắm rõ bằng chứng, cũng như các tình tiết để có thể đòi lại công lý cho nạn nhân, song không thể phủ nhận rằng quá trình điều tra để tìm ra lẽ phải thường vô tình đặt người bị hại vào tình huống dằn vặt, ám ảnh. Sự thiếu thông cảm và nhân đạo trong quá trình điều tra này cần được nhìn nhận và thay đổi.
NGUYÊN DO DẪN ĐẾN “THE SECOND RAPE”
Đầu tiên, phải nói đến bối cảnh hiến pháp Mỹ và Anh – nơi cụm từ này được sinh ra. Theo Rebecca Campbell – giáo sư tại Đại học bang Michigan, những nạn nhân của bạo lực tình dục đôi khi bị đối xử như tội phạm [4]. Tận 81% trong số người tham gia nghiên cứu của giáo sư Campbell cho rằng quá trình điều tra của hệ thống pháp lý đã gây tổn hại lớn về mặt tâm lý cho các nạn nhân [5]. Trong một nghiên cứu của tổ chức Victims Commissioner tại Anh, chỉ có 14% trong 500 nạn nhân của xâm hại tình dục cho biết họ cảm thấy đòi lại được công lý bằng cách báo cảnh sát [6]. Trải nghiệm của nạn nhân khi làm việc với các nhà chức trách thường khiến họ cảm thấy không được tin tưởng, không được đối xử đúng đắn, không có sự riêng tư, bị bỏ quên, v.v. và còn nhiều hơn thế.
Một ví dụ tiêu biểu của The Second Rape là vụ việc tấn công tình dục nghiêm trọng gây ra bởi Brock Turner tại một trường đại học hàng đầu nước Mỹ vào bốn năm trước. Nạn nhân của vụ việc đã lên tiếng về trải nghiệm The Second Rape của cô như sau: “Tôi bị vùi dập với những câu hỏi hẹp hòi, chĩa mũi nhọn vào đời sống riêng tư của tôi […] như thể cố tìm ra một cái cớ để chính đáng hóa việc tên đó đã khiến tôi nửa trần truồng trước cả khi biết tên tôi là gì. Sau khi bị xâm hại về mặt thể xác, tôi tiếp tục bị xâm hại với hàng loạt những câu hỏi được thiết kế để tấn công tôi, để lời tôi nói có vẻ mâu thuẫn, để bảo rằng tôi mất trí, để kết tội tôi nghiện rượu, để vu khống rằng tôi tự nguyện […] Và rồi cũng đến lúc hắn cho lời khai. Đó là lúc tôi hiểu thế nào là trở thành nạn nhân thêm lần nữa.” [7]
Có thể thấy, một hệ thống công lý lẽ ra nên hướng đến việc tìm lại công bằng cho tất cả mọi người lại đối xử với người bị hại như chính thủ phạm. Khi nạn nhân báo cáo vụ việc cho các cơ quan có thẩm quyền, trong đa số trường hợp, họ nhận lại thất vọng. Thay vì được tham gia một quy trình điều tra có cân nhắc đến cảm xúc của họ, các quy trình thực tế của hệ thống tư pháp thường khiến nạn nhân ước rằng họ đã không báo cáo vụ việc ngay từ đầu. Điều đó khiến những nạn nhân khác không có động lực để lên tiếng về việc họ bị xâm hại nữa. Đối với những người dám lên tiếng, thứ đọng lại sau vô vàn cuộc tra hỏi từ cơ quan chấp pháp và dư luận là những triệu chứng hậu sang chấn ngày càng gia tăng và khiến sự kiện đó càng ám ảnh hơn với họ.
Bên cạnh hệ thống pháp lý, “The Second Rape” cũng có thể diễn ra khi nạn nhân không được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc tâm lý và tham vấn sức khỏe phù hợp. Nghiên cứu của Rebecca Campbell vào năm 2001 [8] cũng chỉ ra rằng: việc liên lạc với các hệ thống hỗ trợ công cộng sau khi bị xâm hại thường khiến sức khỏe tâm lý và vật lý của nạn nhân tệ đi. Những kết quả tìm được cho thấy đa số nạn nhân của hiếp dâm không nhận được những dịch vụ hỗ trợ mà họ cần từ hệ thống y tế.
Một nguyên nhân khác không thể không nhắc đến đó là tư duy “đổ lỗi cho nạn nhân”. Tư duy này bắt nguồn từ nhiều định kiến như: một người không thể tự dưng bị hiếp dâm mà chắc chắn họ phải làm gì đó dẫn đến chuyện này (quần áo họ mặc, lối sống của họ, những mối quan hệ cá nhân…), không thể có hành vi hiếp dâm giữa người thân quen (như bạn trai, chồng…). Trong nhiều trường hợp khi kẻ thủ ác có địa vị cao hơn nạn nhân, nạn nhân còn thường bị đổ lỗi vì những hậu quả mà thủ phạm đáng phải chịu. Chính bởi sự phổ biến của lối tư duy này, nạn nhân phải đối mặt với nguy cơ bị tra xét bởi công luận nếu họ “dám” đứng lên tố cáo.
TÓM LẠI LÀ
Giải quyết bài toán về nạn hiếp dâm không chỉ dừng lại ở việc ngăn ngừa và trừng phạt, mà còn phải tính đến những gì xảy ra sau đó. Nạn nhân của hiếp dâm thường đã chịu đủ những trải nghiệm đau thương, nay lại bị đả kích một lần nữa bởi những hệ thống không đứng về phía họ, chẳng hạn như hệ thống tư pháp, dịch vụ công và định kiến văn hóa.
Tuy khái niệm “The Second Rape” có nguồn gốc từ Mỹ, không khó để nhận ra hiện tượng này tồn tại một cách hệ thống trên phạm vi toàn cầu. Đặc biệt, ở châu Á, việc đòi lại công lý cho các nạn nhân của bạo lực tình dục còn gặp phải rất nhiều hạn chế. Trừ Bhutan, các quốc gia như Nepal, Ấn Độ, Sri Lanka và Bangladesh đều có tỉ lệ kết án tội phạm hiếp dâm cực kì thấp, điển hình là Sri Lanka với 3.8% và Bangladesh với 3% [9]. Thậm chí, tại Ấn Độ, Nepal và Sri Lanka, nạn nhân hiếp dâm phải trải qua một cuộc kiểm tra âm đạo để xác định xem họ có thật sự bị hiếp dâm hay không [10]. Ở Việt Nam, nghiên cứu quốc gia ngay từ năm 2010 cho thấy có tới 58% phụ nữ từng kết hôn cho biết họ đã trải qua ít nhất một hình thức bạo lực và tinh thần nhưng có đến 87% nạn nhân bạo lực giới không tìm kiếm sự giúp đỡ nào [11]. Vì thế, trong quá trình tìm kiếm sự thật, chúng ta cần đặt cảm nhận của nạn nhân lên hàng đầu bằng cách thông cảm, sẻ chia hơn là săm soi, châm chọc và nghi ngờ.
Theo chúng mình, “The Second Rape” là một khái niệm cần được biết đến nhiều hơn bởi sự liên quan mật thiết của nó với văn hóa hiếp dâm nói riêng, bình đẳng giới và quyền con người nói chung. Trong bối cảnh mà những phiên tòa diễn ra ngay tại cõi mạng và công lý đám đông trỗi dậy với các “công tố viên online”, chính những người tham gia sử dụng mạng xã hội cũng phải nhìn lại mình: Khi bạn đưa ra một quan điểm “khách quan” và hỏi về quần áo nạn nhân đã mặc khi bị cưỡng bức, rất có thể bạn là một phần của “The Second Rape” đấy.
NGUỒN THAM KHẢO
[1], [4], [7] What is ‘second rape’ and what can we do about it? – Splinter
https://splinternews.com/what-is-second-rape-and-what-can…
[2] What is Second Rape – IGI Global
https://www.igi-global.com/dictionary/second-rape/108313
[3] An Immodest Proposal: Foucault, Hysterization, and the “Second Rape”
[5] Secondary Victimization of Rape Victims: Insights from Mental Health Professionals Who Treat Survivors of Violence – Rebecca Campbell
[6] Rape survivors and the criminal justice system – Victims Commissioner
[8] Preventing the “Second Rape”: Rape Survivors’ Experiences With Community Service Providers – Rebecca Campbell
[9] Sexual Violen in South Asia: Legal and Other Barriers to Justice for Survivors – Equality Now
[10] Rape victims in south Asia still face vaginal tests, report finds – The Guardian
[11] Thực trạng bạo lực giới tại Việt Nam – Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch